Quan Niệm Sắc Diện Của Người Săp Chết & Tìm Hiểu Bệnh Nặng Nhẹ Của Người Xưa
Cũng có người bệnh “Thập Tử Nhất Sinh” mà vẫn qua khoi, ngược lại cũng có người chỉ đau yếu sơ sơ mà lìa đời, hoặc chết 1 cách bất thần, thường gọi là “Bất Đặc Kỳ Tử” đều có căn nguyên, nhưng bởi vô tình không để ý nên không rõ sắc diện đã biến đổi, hoặc cử chỉ lời nói khác hẳn ngày thường như sau:
Mục lục
A. Sắc Diện
1. Biến Sắc
- “Hắc Yểm Thái Dương Hoàng Xâm Khẩu Giác”
Có nghĩa là 2 bên Thái Dương tối đen, chung quanh miệng màu vàng hoe bao bọc
- “Hắc Thiệt Hoặc Điểm Thanh”
Lưỡi đen hoặc trở thành xanh lè
- “Tị Dầu Khuynh Phúc”
Đầu sống mũi nghiêng vẹo hẳn đi
- “Lưỡng Quyền Bất Đối”
2 xương gò má tự nhiên bị lệch lạc
- “Nhãn Lộ Thần Quang”
2 mắt lóng lánh sáng ngời
- “Nhãn Dung Tà Thị”
Mắt hay nhìn trộm, khi người nhìn mình thì lại ngoảnh đi, làm như không để ý tới ai
2. Cử chỉ biến đổi
- Thích cạy răng và ưa gãy móng tay
- Hay vuốt tóc và vuốt mắt
- Hay vân vê tà áo muốn cho có nếp vuông vắn
- Hay nói 1 mình và liếm môi
Ngoài ra những người không bệnh hoạn gì mà tự nhiên tỏ ra buồn rầu, bơ thờ hay thở dài, hoặc hay nhìn trộm, theo cử chỉ này từ trước không hề có
— Người bệnh hoặc không bệnh mà tự nhiên đầu gối đến chân sưng lên rồi lại xẹp xuống tới 2 lần
3. Lời nói khác ngày thường
Cổ nhân đã nói rằng:
“Nhân chi tương tứ kỳ ngôn giả thiện
Điều nhi tương vong kỳ minh giả ai”
Con người khi gần chết hay nói lời lành.
Loài chim biết bị chết thì tiếng kêu thảm thiết.
Bởi vậy người bệnh hoặc không bệnh mặc dầu khi không mà thốt ra tiếng nói lạ kỳ là xấu, thường gọi là nói gở, hoặc trối trăng (di ngôn). Những tiếng nói này đại khái như sau:
- Hay nói chuyện nhân nghĩa vu vơ để tỏ lòng mình
- Hay nói chuyện chán đơi
- Ưa nói chuyện mai hậu
- Hay thở dài, chép miệng, con mắt lờ đờ không phải là mơ mộng, ưa ngó xa xôi.
- Tự nhiên nói chuyện chia phần, chia của cho con cái hay người khác
— Theo mấy đặc điểm ghi trên đầu là điềm báo trước cho người xấu số.
B. Phương pháp để hiểu bệnh nặng hay nhẹ của Dân gian
Phương pháp này gọi là Nhân – Tam – Trừ – Cửu. Dùng để quyết đoán bệnh nặng hay nhẹ.
Ví dụ: 1 người bệnh 50 tuổi theo âm lịch, nhằm đúng ngày 15ta, tháng Giêng ta, thì lấy số 15 cộng với số 1 là tháng Giêng thành 16 rồi cộng thêm số 50 tuổi thành 66. Lấy số 66 nhân với số 3 được số 198. Xong rồi lấy số 198 đổ trừ cho 9, cứ như vậy mãi cho đến 22 lần thì hết không còn số thừa, là Tận Số. Tận Số là Tận Mạng.
Từ 0 đến 9 được chia ra các hung như sau:
- Những số trừ đi mà còn lại là 0, hoặc vẫn là 9 thì là Tận Số
- Trừ đi rồi còn lại 1 là bệnh qua loa sẽ lành
- Trừ đi còn số 3 là bệnh lay lắt ít ngày rồi hết, không nguy hại
- Trừ đi còn số 6 là bệnh nặng, nhưng không đến nỗi chết, cần thuốc thang tốt
- Nếu trừ đi 9 rồi còn lại là số 2,4,5,7 hoặc 8 thì vô sự không lo
TMGL Phần Tiếp Theo – Phần I Chương 7
Thọ Mai Gia Lễ Phần II – Chương 1